[Tiểu Thuyết] KINH HOA YÊN VÂN: Chương 2

KINH HOA YÊN VÂN | 京华烟云

Tác giả: Lâm Ngữ Đường

Dịch: 2zhaowei

第二章 :遇乱兵骨肉失散 贴告白沿路寻人

Chương 2:

Gặp loạn binh, cốt nhục ly tán

Dán thông báo, Diêu gia dọc đường tìm con.

 

[Tiểu Thuyết] KINH HOA YÊN VÂN: Chương 2
Mộc Lan và em gái Mạc Sầu tám tuổi, còn có chị San Thư ngồi cùng xe, ba người xếp bằng chân ngồi trên đệm bông cứng màu xanh lam, lần đầu tiên được nếm trải cảm giác tròng trành khi ngồi trên xe, cũng là lần đầu tiên cảm nhận rõ ràng sự nguy hiểm trên đường đi trong một không gian mịt mù.
 
Không lâu sau, Mộc Lan, Mạc Sầu và chị San Thư bắt đầu chuyện trò với người đánh xe. Người phu xe có tính tình khá ôn hoà, ông kể cho các cô tình hình của Nghĩa Hoà Đoàn, những điều mà Nghĩa Hoà Đoàn đang làm, và còn những chuyện mà Nghĩa Hoà Đoàn không làm, rồi chuyện ông tán dóc với Nghĩa Hoà Đoàn như thế nào, nói những chuyện gì, đến chiến sự ở Thiên Tân, Từ Hy Thái hậu, Hoàng đế Quang Tự, Đại A Ca, rồi cả tình hình đoạn đường phía trước như thế nào…
 
Từ phía bắc thành Bắc Kinh đến phía nam thành, các cô nhìn thấy biết bao nhiêu ngôi nhà bị đốt phá chỉ còn trơ lại đống gạch ngói vụn. Lúc đó đoàn xe cứ men theo tường thành đi về hướng tây, qua những khu hoang phế tiêu điều đó, họ nhìn thấy một đám người đứng trên một bãi đất trống, ở giữa là một bàn thờ của Nghĩa Hoà Đoàn được phủ vải đỏ, trên những đế nến bằng thiếc cắm những cây nến màu đỏ. Vài người Trung Quốc quỳ trước bàn thờ chờ thẩm vấn bởi vì họ bị nghi ngờ là Nhị Mao Tử.
Anh phu xe chỉ cho các cô xem mấy cô gái và mấy bà của Nghĩa Hòa Đoàn, họ đều mặc áo cánh màu đỏ, quần màu đỏ, phía dưới ống quần màu đỏ để lộ ra đôi chân bé nhỏ xíu, tóc của họ được kết thành một bím to, quấn trên đỉnh đầu. Những đoàn viên nam của Nghĩa Hòa Đoàn cũng mặc áo choàng ngắn màu đỏ, có cái thì chỉ vạt trước ngực màu đỏ, nữ đoàn viên thì quấn vải quanh eo thành một chiếc thắt lưng rộng, thể hiện tinh thần vũ dũng. Anh phu xe nói với các cô là những nữ đoàn viên Nghĩa Hòa Đoàn đó được gọi là “Hồng đăng chiếu” và “Hắc đăng chiếu”. Ban ngày họ cầm một cây quạt màu đỏ, nan quạt cũng được sơn thành màu đỏ, ban đêm thì họ mang theo đèn lồng màu đỏ.  “Hồng đăng chiếu” đều là thiếu nữ, “Hắc đăng chiếu” thì là góa phụ. Những người không bó chân đều là những bà làm nghề chèo thuyền. Thủ lĩnh của bọn họ được gọi là “Thánh Mẫu”, vốn dĩ cũng là một thuyền nương trên sông Vận Lương nhưng đã từng được quan tuần phủ mời ngồi kiệu che vải lĩnh vàng vào nha môn tuần phủ. Một số trong các thiếu nữ đó biết đánh võ nhưng đa phần là không biết. Họ có pháp thuật. Họ bắt buộc phải học đọc thần chú. Sau khi luyện tập trong một thời gian ngắn, nếu như là họ không lên trời thì chỉ cần phất nhẹ cái quạt đỏ là cũng có thể bay lên không trung. Chí ít thì họ cũng có thể trèo tường, bởi vì chính anh phu xe từng trông thấy các bà các cô đó đứng trên nóc nhà nhà người ta.
 
Vậy anh phu xe đã từng thấy bọn họ làm phép chưa?
 
Có chứ, anh ta thấy rất nhiều lần rồi. 
 
Đầu tiên là họ lập ban thờ, đốt nến, sau đó họ lầm rầm khấn vái, rồi đột nhiên họ có bộ dạng rất lạ, trong miệng nói những câu pháp thuật. Đó chính là lúc mà thần tiên nhập vào thể xác họ, hai mắt nhìn thẳng, trợn lên trừng trừng. Tiếp theo là họ múa đại đao, rồi băm mạnh vào da bụng của mình thế nhưng da thịt không hề bị thương.
 
Đến nhập vào họ chính là Tề thiên đại thánh Tôn Ngộ Không.
 
Những chuyện thần thoại như thế, đến hôm nay Mộc Lan mới được nghe, cuối cùng lại biến thành hiện thực ngay trước mắt.
 
Trời vẫn chưa tối, đoàn xe đã qua được cửa Tây, ra khỏi thành Bắc Kinh, đến vùng hoang vu vắng người.
 
Ba ngày đầu tiên của lộ trình có thể coi là khá thuận lợi, không xảy ra chuyện gì, chỉ là trời quá nóng, xe thì lắc lư nghiêng ngả khiến cho ai ai cũng đều kêu đau chân. Mỗi ngày đều xuất phát từ rất sớm, trước bữa sáng đã đi được hơn mười dặm, có hôm được mười hai dặm. Sáng sớm và buổi chiều là đi được nhiều nhất. Buổi trưa thì người và la đều cần nghỉ ngơi lâu lâu để lấy sức. Thể Nhân và Phùng cữu gia thường xuống xe đi bộ khoảng một dặm vì ngồi bó gối nhiều quá khó chịu. Sau ngày thứ tư, mọi người cũng dần quen với sự lắc lư nghiêng ngả của xe.
 
Thể Nhân là không ngồi yên nhất, đổi xe mấy lần; Có lúc thì ngồi cùng xe với mẹ, lúc thì lại đòi ngồi cùng xe với Ngân Bình. Thể Nhân được mẹ nuông chiều, để mặc cậu, cũng không quản thúc chặt chẽ. Ngân Bình lớn hơn cậu ba tuổi, mỗi lần cậu ta ở chung với Ngân Bình thì cậu ta rất vui; Thể Nhân ưa tán gẫu, cùng đùa vui với Ngân Bình. Lúc Cẩm Nhi chịu không nổi, nó liền lên ngồi xe với Diêu thái thái, giúp bà trông bọn trẻ con.
 
Ngày thứ tư, cũng là khi đã đi cách Trác Châu hai ngày đường, đoàn xe đi theo đường lớn Phủ Bảo Định thẳng tiến về hướng Đông Nam, tất cả mọi chuyện xem chừng như có vẻ không thuận lợi. Tin đồn lan truyền khắp nơi, có người liên quân tám nước đã tiến vào thành Bắc Kinh, loạn quân và quyền đồ đang rút về phương Nam. Có tin đồn khác thì nói là Dụ tổng đốc và tướng quân đã tự vận, Cam Quân đang rút về phương Nam.
 
Giữa quyền đồ và quân đội đôi khi cũng xảy ra chiến tranh, đó là vì vũ khí của quyền đồ chỉ có đao và thương, tổn thất không nhỏ. Vừa nghe thấy tiếng súng là đám quyền đồ bỏ chạy tứ tung. Rốt cục quyền đồ  có tính chất gì, cả người dân lẫn quân đội chính phủ đều không hiểu rõ. Trong quân đội, một nửa thì nói là phải tiêu diệt quyền đồ, một nửa thì lại phản đối. Do đã đốt giáo đường, giết hàng vạn người tây đáng căm hận mà quyền đồ rất được lòng dân. Mùa xuân, triều đình từng hạ lệnh thu nạp và tổ chức lại quyền đồ; Bây giờ lại cho quân lính diệt trừ quyền đồ; Gần đây triều đình hình như lại tin một cách mù quáng vào bọn họ, thậm chí còn dùng họ trong chính sách bài ngoại của mình.
 
Quân lính và quyền đồ tán loạn càng lúc càng nhiều, nạn cướp bóc thì lại ngày càng tăng. Dòng người đổ đi lánh nạn dâng lên như sóng biển, nào là dùng xe đẩy, cưỡi lừa, cưỡi ngựa, các hình thức kiểu gì cũng có. Có người nông dân thì quẩy hai cái sọt,, một bên gánh mấy con lợn con, bên kia thì gánh con nhỏ. Đoàn xe nhà họ Diêu đi trước khá xa đám quân dân chạy loạn đó, cho nên trên đường cũng có thể coi như là bình an vô sự. Cánh phụ nữ bắt đầu yên tâm, Thể Nhân cũng dần ổn định. Diêu đại gia căn dặn phải cố gắng đi càng nhanh càng tốt, có thể bớt nghỉ chỗ nào thì bớt nghỉ ngơi chỗ đó, hy vọng đến được Đức Châu trước khi loạn binh đuổi kịp. Diêu đại gia đã xé bỏ giấy thông hành của Đoan vương, bởi vì cơ bản nó cũng chỉ giống như một tờ giấy bỏ đi, không có chút tác dụng nào cả; Hơn thế, gặp phải quyền đồ hoặc loạn binh, không chừng lại gây phiền phức.
 
Trước lúc mặt trời lặn ngày hôm đó, đoàn xe nhà họ Diêu đã đến được Nhậm Khưu vì buổi trưa chỉ họ chỉ dừng chân nghỉ có một lúc mà thôi. Sau khi thuê nhà trọ, Diêu đại gia hỏi chủ nhà xem trong thành có quan binh không. Nghe nói quan đới họ Từ tức là đội trưởng doanh trại số 6 Thiên Tân mang cờ viền vàng đang trấn giữ ở đó để bảo vệ trị an, Diêu đại gia mới an tâm. Những giáo đường thiên chúa giáo ở vùng đó một tháng trước mới bị đốt phá, nhưng khi Từ doanh trưởng vào thành, ông cho bắt mấy mươi vị “đại sư huynh” đem đi chém đầu, dư đảng còn lại đều trốn về các vùng quê.
 
Một vị lữ khách mang theo gia quyến, hai người vợ và ba đứa con cũng đi lánh nạn đến đây, họ đến muộn hơn nhà họ Diêu một lúc, mang theo một tin tức khiến cho người ta cảm thấy bất an. Đó là vào một buổi sáng khi họ rời phủ Bảo Định, đi thẳng về hướng Nam để đến Nhậm Khâu lánh nạn vì nghe nói Từ doanh trưởng có thể bảo an dân chúng vùng Nhậm Khâu. 
Câu chuyện của họ như sau:
 
Một nhà quan lại giàu có đàng trên đường đến phủ Bảo Định. Con gái họ đeo một cái vòng xuyến bằng vàng. Một đội tàn binh dần đi lại gần, họ nhìn thấy cái vòng vàng thì muốn cướp, cô gái đó đành đưa ra mà lòng chẳng thoải mái gì, cứ dùng dằng một lúc, một tên lính liền rút đao chém đứt cánh tay của cô ấy, nhặt cái vòng rồi chạy mất. Một toán quân lính khác đến, nghe nói chuyện đó, hình như chỉ nhìn thấy cái vòng đang ở trong tay mấy tên lính phía trước, thế là chúng đuổi theo giết đám lính đó. Trong số mấy tên lính phía trước có mấy tên chạy thoát được, chúng liền nấp dưới ruộng cao lương ven đường. Đợi lúc mấy tên lính cướp vòng của chúng khi nãy đi qua, chúng lại cướp ngược lại một lần nữa.
 
Thế là chỉ vì một cái vòng vàng mà mất bảy, tám mạng người.
 
Mấy người khách cùng đường đó nói thầm với nhau những chuyển xảy ra trên đường đi, Diêu đại gia nghe xong chỉ lặng im không nói. Ông bảo mọi người ăn tối xong thì phải đi ngủ ngay, trẻ con và a hoàn không được ra khỏi phòng. Cả nhà chỉ có một phòng mà có tới hai mươi nguời, họ cũng không thể tách ra để ở hai nhà trọ khác nhau. Sau khi nhà kia đến nữa càng làm tình hình khó khăn hơn. Cả phòng chỉ có một chiếc giường lò mà cũng chỉ rộng chừng mét rưỡi, thế nên a hoàn đành phải nằm ngủ dưới đất. Trong khi những người khác đang cần kíp, Diêu đại gia không thể ôm khư khư quyền lợi riêng của mình, thế nên ông đồng ý để hai bà vợ của nhà kia ngủ chung phòng với người nhà ông trong cái phòng chật hẹp đó. Còn bản thân ông, Phùng cữu gia, La Đông và cả cánh đàn ông con trai thì ra ngủ phía bên ngoài. Gian ngoài là một phòng vừa là phòng khách, vừa là bếp lại được dùng luôn làm phòng ăn.
 
Trong phòng, đám trẻ đã ngủ yên, La Đông cũng ngáy vang như sấm nhưng Diêu lão gia thì không hề thấy buồn ngủ, ông cũng không thể ngủ được. Ông thầm dự tính sáng mai sẽ xuất phát từ sáng sớm, đến trước khi mặt trời xế bóng có lẽ sẽ đến được phủ Hà Gián.
 
Tạm thời, mọi việc có thể coi như yên ổn. Ngọn đèn dầu nhỏ trên nóc lò tỏa ánh sáng lấp lánh, đẹp và thật yên bình. Ông rút chiếc tẩu thuốc ra hút và chìm vào dòng suy tưởng. Đây là một đêm thật yên tĩnh mà lâu lắm rồi ông không có được. Sau này nghĩ lại đêm hôm đó, ông cảm thấy thực sự hạnh phúc như đang ở trên thiên đường vậy, người thân của mình đang ngủ yên trong gian phòng bên cạnh, còn bản thân ông thì ngồi hút tẩu dưới ánh sáng nhảy múa tỏa từ một ngọn đèn dầu đặt trên nóc lò.
Đến khoảng nửa đêm, như nghe thấy thái thái hét lên sợ hãi trong giấc ngủ, rồi trong phòng có tiếng động lục đục. Ông bưng ngọn đèn trên nóc lò đi vào phòng bên để xem xét. Diêu thái thái ngồi bên các con, bà đã ngồi hẳn dậy, đang nhẹ nhàng vuốt má rồi vén tóc Mộc Lan.
 
Diêu thái thái thấy chồng thì cất tiếng hỏi: “Đêm khuya thế rồi ông còn làm gì vậy? Còn chưa ngủ ư?”
 
Diêu lão gia nói: “Hình như tôi nghe thấy bà trong mơ hét lên một tiếng.”
 
“ Thật sao? Làm tôi một phen hoảng hồn. Tôi mơ thấy Mộc Lan đứng ở trong một thung lũng rất xa gọi tôi, tôi run lên cầm cập rồi giật mình tỉnh giấc. Cũng may, may mà chỉ là một giấc mơ”. Rồi bà lại quay xuống nhìn Mộc Lan, rồi khắp mấy đứa con bên cạnh bà.
 
Diêu đại gia trấn an vợ: “Chỉ là giấc mơ thì tốt rồi. Ngủ đi”. 
 
Rồi ông đi ra khỏi phòng.
 
Không lâu sau, trời đổ cơn mưa lớn, tiếng mưa rả rích khiến Diêu đại gia cảm thấy buồn ngủ, không biết từ khi nào ông cũng đã chìm vào giấc ngủ.
 
Sáng sớm ngày hai mươi lăm tháng bảy, Diêu đại gia bị tiếng động trong phòng đánh thức, xem ra phần lớn mọi người đều đã dậy và rửa mặt cả rồi. Phu xe cũng đã tập trung trước cửa, họ bảo nhau mưa xong trời mát mẻ hơn hẳn. Trên trời lại có mây, xem chừng sẽ râm mát cả ngày. Đến phủ Hà Gián chỉ còn sáu mươi dặm đường, đường đi cũng không khó nữa. Nếu như la không phải kéo quá nặng, một ngày nó có thể dễ dàng đi được một trăm dặm. Nhưng đi đường dài, lại phải kéo xe nên nó chỉ có thể đi được sáu mươi dặm, nhiều nhất cũng chỉ là bảy mươi dặm. Có một con la giẫm trượt xuống rãnh, xém chút nữa là quỵ gối đổ cả xe, chân trước xem chừng đã bị trẹo. Cho nên hôm nay đoàn xe lại phải đi chậm hơn một chút.
 
Ước chừng khoảng 8 giờ mới xuất phát. Diêu thái thái gọi Thanh Hà đến xe của bà để bế em. Con la kéo xe mà Mộc Lan ngồi đi có vẻ tập tễnh cà nhắc từng bước một.
 
Sau khi đi được chừng năm mươi dặm, càng lúc con la đó càng lộ rõ vẻ bất an, nó thường đứng lại thở dốc, hai bên sườn, bụng nó phồng lên lại xẹp xuống. Thân hình con la vốn giống con ngựa nhưng cái não lại là của con lừa cho nên nó có sức mạnh của con ngựa và tính khí quật cường của con lừa. Phu xe nói là con la đó bị bệnh rồi, nếu như không đi chậm lại, e rằng nó sẽ chết mất. Anh ta nói:
 
 “Con la rất quân tử, một khi bị bệnh thì nó ăn không ngon, không muốn ăn gì cả. Sớm nay con la này chỉ ngửi qua cỏ khô, nhai có chút ít. Cái bụng trống không thì làm sao mà kéo xe được? Cũng chẳng phải giống như con người đấy sao?
 
 Đi suốt ba giờ mới được có hai mươi dặm đường, đến được trạm dịch Tân Trung. Khoảng một rưỡi chiều, mọi người mới được xuống xe, ai cũng đói, họ nghỉ chân ăn lót dạ. Trạm dịch Tân Trung là một trạm dịch cũ, là nơi chuyển giao công văn cho quan gia, người và ngựa sẽ được đổi ở đây. Các công văn khẩn cấp từ phủ Hà Gián chuyển đến Bắc Kinh cách đó một trăm dặm nhưng chỉ trong mười hai giờ là có thể chuyển được đến nơi. Gần đó có một đàn ngựa khoảng ba, bốn con đang được buộc vào gốc cây.
 
Vốn dĩ họ cũng định đi đến được phủ Hà Gián thì sẽ đổi mấy con la để đi tiếp đoạn đường còn lại, bây giờ người phu xe có con la đó quyết định chọn một con trong đám ngựa kia để dùng thay thế, hay chí ít cũng có thể giúp hoàn thành đoạn đường còn lại của cả ngày. Anh ta quen biết người ở trạm dịch đó thế nên mọi chuyện cũng dễ dàng thương lượng.
 
Sau bữa cơm trưa, mọi người nghỉ ngơi ở một cái chòi nghỉ mát. Mộc Lan, Mạc Sầu, Thể Nhân đi lang thang đến gốc cây để xem mấy con ngựa. Thể Nhân đi quá gần tới một con ngựa, con ngựa đó bắt đầu đá loạn lên, khiến cho Mộc Lan sợ hãi kéo Mạc Sầu vừa chạy vừa kêu cứu. Những con ngựa ở trạm này đều khá to khỏe, Diêu đại gia vội gọi Thể Nhân quay về.
 
Diêu đại gia thấy nôn nóng hấp tấp. Diêu thái thái đã nói với ông chuyện giấc mơ hôm qua. Trong mơ chỉ nhớ rằng bà đi trong một cái thung lũng,giữa thung lũng có một dòng suối lớn, phía bên kia là một rừng cây. Lúc ấy bà kéo tay Mạc Sầu. Bà dường như nghe thấy Mộc Lan gọi bà. Bà đột nhiên nghĩ đến Mộc Lan đúng là không đang ở bên cạnh và, dường như là mấy ngày rồi không gặp nó vậy. Đầu tiên, tiếng của Mộc Lan như từ trên ngọn cây vọng xuống; Lúc bà quay người đi vào trong rừng cây âm u đó thì thấy rất nhiều đường mòn nhỏ bị chặn kín không thể đi được. Đang lúc không biết làm thế nào, bà lại nghe tiếng Mộc Lan gọi, tiếng gọi khá rõ nhưng lại mệt mỏi yếu đuối, tưởng chừng như từ bên kia con suối vọng lại. Tiếng Mộc Lan gọi bà: “Con ở đây! Con ở đây!” Khi quay người lại, nhìn thấy bóng con đang hái hoa trên bãi cỏ bên kia suối. Bà không thấy cầu, cũng không thấy thuyền, trong lòng bỗng bồn chồn khó hiểu không biết làm thế nào mà con mình qua được bên kia? Bà để Mạc Sầu trên bờ, tự mình lội xuống dòng nước trong xanh đang chảy xiết. Bất chợt có một cơn lũ ập đến, cuốn hai chân bà treo lơ lửng trên không. Bà giật mình tỉnh giấc, thì ra bà vẫn đang nằm trên chiếc giường lò ở nhà trọ.
 
Giấc mơ đó khiến cho ai nghe xong trong lòng cũng thấp thỏm không yên, nhưng khi bà kể xong thì không ai nói câu gì cả.
Con la bị trẹo chân đó tạm thời được gửi lại trạm dịch, khi phu xe quay lại thì sẽ đem nó về. Lúc khoảng ba giờ, đoàn xe lại lên đường, con ngựa mới mượn đó kéo xe của San Hô và hai chị em Mộc Lan. Con ngựa đó luôn xông lên phía trước, phu xe không hiểu thói quen tính cách của nó cho nên không dễ dàng gì mà khống chế được nó.
 
Đến gần năm giờ, đoàn xe chỉ còn cách thành Hà Gián khoảng hai mươi, ba mươi dặm. Họ trông thấy từ đằng xa phía bên trái có một đội quân đang băng qua ruộng mà đi tới. Diêu đại gia nói ông cần phải lên xe đi đầu để ngồi, nhưng mà vượt qua đoạn đường mòn thấp hơn mặt đường tới ba bốn tấc để đến được đường rộng phía trước thì vốn là không thể tránh xe, hơn thế khoảng hai trăm mét phía trước mặt và sau lưng họ cũng có hàng đoàn nạn dân khác nữa.
 
Bỗng nhiên có tiếng súng nổ. Ruộng nương xung quanh đều trồng cây cao lương. Vào mùa đó, cây cao lương đã xanh mướt và cao gần một trượng. Lúc súng nổ, đoàn xe nhà họ Diêu đang ở chỗ thấp, cây cao lương che hết tầm mắt nên họ không thể nhìn thấy rốt cục là quân lính ở phía nào, chỉ nghe thấy tiếng người nói càng lúc càng gần. Lại nghe thấy cả tiếng súng nổ. Lúc ấy đoàn xe không thể quay đầu rút lui, lại cũng không biết phải đi về hướng nào, dường như nghe thấy tiếng binh lính đến từ cả phía trước và phía sau. Họ đến được chỗ đất bằng phẳng thì có bảy, tám tên lính đào ngũ từ ngã tư chạy qua, lại trông thấy cả một toán lính xếp thành đội ngũ cách họ chừng hơn trăm mét về phía bên trái. Vì thế mà đoàn xe dừng cả lại, Diêu thái thái gọi San Hô, sai San Hô đưa chị em Mộc Lan đến ngồi chung xe với bà.
 
San Hô có đôi chân bó nhỏ xíu, xuống xe la cũng không phải là chuyện dễ dàng nhưng cô ấy vẫn theo lệnh mà làm. Tụt được xuống đất, San Hô giơ tay bế Mạc Sầu xuống xe rồi ôm Mạc Sầu qua xe của Diêu thái thái, định bụng sẽ quay chuyến lần nữa để đón Mộc Lan. Đoàn xe dừng ngay ở ngã tư đường, chặn mất lối đi của những nạn dân phía sau, những người phu xe phía sau vừa hò hét vừa chửi rủa, khung cảnh thật náo loạn hỗn tạp.
 
Đúng lúc ấy, lại thấy có tiếng súng nổ, mấy tên lính cưỡi ngựa đang vội vã phóng nước đại vượt qua. Đám la và người bị hoảng, chúng bắt đầu lao loạn lên phía trước, xe của Mộc Lan cũng nằm trong đám binh mã đang phóng như bay về phía trước.
 
Trong khung cảnh hỗn loạn đó, không ai biết được đã xảy ra chuyện gì. Trong đám binh đó hầu như chỉ vội tháo chạy để giữ mạng sống chứ hầu như không còn để tâm chuyện cướp bóc nữa. Bị đoàn người ngựa dồn từ phía trước tới càng lúc càng đông, rồi phía sau cũng đông nghịt xe, đoàn xe nhà họ Diêu bị kẹt ngay ở giữa, đám la, ngựa bị hoảng hốt cứ tán loạn xông lên. Hỗn tạp ầm ĩ, bụi bay mù trời đến nỗi giơ tay trước mặt cũng không trông thấy ngón tay. San Hô đang vội vội vàng vàng bò đến xe của Diêu phu nhân thì đám quan binh cưỡi ngựa phóng vụt qua bên người. Vừa định thần, San Hô chợt nhớ ra rằng Mộc Lan vẫn còn đang ngồi một mình trên xe. San Hô hét lên the thé: “Mộc Lan!”. Mẹ Mộc Lan không kịp suy nghĩ, bà lập tức đòi nhảy xuống xe tìm con. Nhưng trong giây phút đó, hầu như các xe đều bị nghẽn cứng. Bà có thể nhìn thấy chỉ là người, xe, móng ngựa đang hỗn loạn một đám trước mặt, xe của bà cũng đang bị đẩy theo dòng náo loạn mà xông lên phía trước. Đám la và ngựa một khi bị đứt cương mà chạy, bạn muốn hét gọi chỉ huy bọn chúng, đó chẳng khác chi đứng trước cái đầu xe lửa đang rú lên ầm ầm mà kêu hò. Mười mấy cỗ xe trước mặt, bà một dạ trông mong trong đó có cỗ xe kéo Mộc Lan. Lúc đó Diêu đại gia còn chưa biết chuyện Mộc Lan ngồi một mình trên xe. Do đám quan binh không dừng lại cướp bóc, ông còn đang nghĩ rằng hoạn nạn đã qua rồi.
 
Lúc mấy chiếc xe lao về phía trước, Diêu đại gia chỉ mong sao mau chóng thoát xa khỏi đám quan binh, càng nhanh càng xa càng tốt, sau đó mới kiểm tra xem có bị mất mát gì không, trong lòng ông nghĩ rằng cả nhà vẫn đang đi cùng một hướng. Mẹ Mộc Lan thì chỉ mong sao xẻ thân mình làm đôi; một nửa thì lao lên phía trước để nhận xe và người phu xe của Mộc Lan; Một nửa thì đi chậm lại xem xét mấy chiếc xe phía sau. Nhưng mà thực tế, bà không có đường nào để xoay xở. Đường đi lúc này chỉ có thể đi theo một hướng. Rất nhiều lần bà chỉ muốn nhảy xuống xe, may mà San Hô đã kéo giữ bà lại.
 
Qua chừng bảy, tám phút rối loạn, xe la cũng dần chậm lại. Đưa mắt nhìn bốn phía cũng không thấy bóng dáng quan binh nữa. Đoàn xe đã đi cách chỗ ngã tư đường lúc trước khoảng chừng hai dặm. Một chiếc xe bị lật nhào xuống con rạch ven đường, người phụ nữ ngã từ chiếc xe đó gần như bị những chiếc xe đi phía sau đến cán qua. Lại có một chiếc xe khác lao lên, người khách trên xe quen biết người phụ nữ nó liền nhảy xuống xe nhưng mà chiếc xe đó lại dừng ngay ở giữa đường. Thế là xe nhà họ Diêu lại bị chặn lại. Phùng cữu gia chạy quanh nghe ngóng. Diêu thái thái thì sốt ruột sắp phát điên lên. San Hô và Thanh Hà thì ôm nhau khóc. Diêu thái thái chỉ vào mấy chiếc xe vẫn đang chạy phía trước nhưng đang dần dần khuất bóng phía xa, miệng hét chắc rằng xe của Mộc Lan ở trong số đó, họ phải nhanh chóng đuổi theo, không được dừng lại tại đây.
 
Bà kêu to: “Mộc Lan ngồi một mình trên xe đấy!”
 
Diêu đại gia biết được chuyện đáng sợ đó, ông cũng không kịp hỏi xem vì sao mà Mộc Lan lại ngồi một mình trên xe. Ông liền tháo ngay một con ngựa ở xe ra, nhảy lên ngựa, ông phóng như bay qua đám người, đuổi theo đám nạn dân phía trước. Nhưng mà ông đuổi theo cũng không được gì, uổng công vô ích.
 
Lúc đó đám a hoàn đều xuống xe chạy đến hỏi, nghe được tin ấy, mặt đứa nào cũng cắt không còn giọt máu, há hốc miệng không nói được câu nào. San Hô thì tưởng chừng như lăn từ trên xe xuống đất. Tại sao mà qua mười lăm phút mà trong xe lại có ba người phụ nữ và hai đứa trẻ, không ai nói rõ được. Diêu phu nhân ôm chặt Mạc Sầu trong lòng, Thanh Hà thì ôm đứa bé. Lúc đầu Mạc Sầu sợ tới mức nói không ra tiếng, bây giờ thì nó bắt đầu khóc. Những nạn dân khác túm lại xem rồi lại bỏ đi. Có người đứng lại xem người đàn bà bị ngã xe lúc trước, hình như con la kéo xe của bà ta bị trúng một phát đạn vào chân, muốn kéo nó ra khỏi cái xe bị lật thật không phải chuyện dễ dàng. Cũng có người dừng lại, nghe chuyện một bé gái khoảng mười mấy tuổi bị lạc bố mẹ, có người tỏ vẻ thương tâm, có người thì thản nhiên bước qua không chút động lòng.
 
Thể Nhân nói nó từng thấy con ngựa kéo xe của Mộc Lan theo đám quan binh chạy về bên phải, nhưng mà nhìn cũng không rõ lắm. Nếu như Thể Nhân nhìn đúng thì Mộc Lan đã rẽ đường khác mất rồi, có lẽ là chạy theo đám quan binh đó. Nhưng mà trên xe còn có phu xe cơ mà? Anh ta sẽ đánh xe về phủ Hà Gián, có lẽ sẽ đuổi theo bọn họ, có lẽ trên đường đi cũng sẽ gặp nhau.
Mọi người đều đang phân vân rối trí không biết làm như thế nào thì nhìn thấy người phu xe của Mộc Lan tay cầm cái roi da chạy tới, vừa chạy vừa gọi. Mọi người thấy người phu xe mà không thấy xe đâu thì mặt ai nấy đều biến sắc.
 
 “Xảy ra chuyện gì với cô bé sao?”
 
 “Ai biết được? Chúng tôi cùng bị cuốn theo quan binh xông lên, con ngựa bị hoảng, làm thế nào cũng không ghì nó lại được…”.
 
 “Bây giờ cô ấy đang ở đâu?”
 
 “Cô ấy chạy đi đằng nào rồi?”
 
“Sao cậu lại làm mất xe chứ?”
 
Phu xe cũng không biết đường nào mà trả lời, anh ta cũng lờ mờ không hiểu chuyện gì đã xảy ra như chính những người đang hỏi anh. Xe của anh ta bị ngựa kéo đi theo phía bên phải, sau đó là rẽ vào đường bên phải, rồi thấy không còn quan binh nữa; Đợi đến khi thấy đã xa khỏi đám người, anh ta xuống xe định kéo ngựa lại. Nhưng con ngựa đó quá khỏe, không thể nào gò được dây cương, con ngựa lại lồng lên phía trước mà chạy.
 
Một điều có thể chắc chắn đó là Mộc Lan đang ở trên xe. Và còn, cỗ xe đó sẽ không thể đi về hướng phủ Hà Gián, bởi vì lần cuối cùng lúc phu xe trông thấy xe rẽ vào khúc quẹo mất hút trong ruộng cao lương xanh tốt là xe quay ngược lại hướng Bắc. Anh phu xe tin rằng con ngựa đó sẽ tự biết tìm đường quay về trạm dịch Tân  Trung. Vốn là người có bụng dạ trung hậu thật thà nên anh ta mới chạy đến để báo cho cha của Mộc Lan.
 
Mọi người không biết làm gì hơn, sau khi đợi mấy canh giờ, Diêu đại gia cưỡi ngựa quay lại. Mỗi xe đi qua ông đều nhìn, cúi người xuống xem xét, thậm chí ông chạy đến tận khi sắp trông thấy tường thành của phủ Hà Gián rồi mới thôi không tìm nữa.
Diêu đại gia cảm thấy cách nghĩ của người phu xe rất có lý. Con ngựa đó sẽ tìm đường quay lại trạm dịch Tân Trung.
 
Mặt trời đã gần xế bóng. Diêu đại gia muốn xe của ông quay lại trạm dịch Tân Trung, phu xe đi tìm lại xe và ngựa của anh ta còn Diêu đại gia thì tìm con gái của mình. Những người khác thì phải tiếp tục đi thẳng về phủ Hà Gián, bởi vì phủ Hà Gián sắp đóng cổng thành rồi. Phu xe nói với mọi người tên nhà trọ mà họ sẽ ở trong thành phủ Hà Gián, bảo họ cứ ở nhà trọ đó đợi tin tức.
 
Mẹ Mộc Lan cả đêm không ngủ, chỉ âm thầm rơi lệ. Trời sáng, bà gọi La Đông và anh trai dậy đi ra cổng Bắc tìm Mộc Lan.
 
Khoảng chín giờ sáng ngày hôm sau, Diêu đại gia trở vào thành Hà Gián. Người và xe đều đã quay lại, nhưng mà con gái thì không thấy đâu, ông cũng tìm khắp các ngả đường chỗ ngã tư nhưng mà tuyệt nhiên không thấy Mộc Lan đâu cả.
 
Tin tức đó đúng như sấm động giữa trời quang. Mộc Lan mất tích rồi, còn gì mà phải nghi ngờ nữa? Diêu phu nhân khóc rống lên: “Mộc Lan, con ơi, con nỡ lòng nào mà bỏ mẹ đi như thế! Sao con nỡ lòng đi tìm Mục Liên em con chứ! Bây giờ con bỏ mẹ đi như thế, mẹ sống thế nào được nữa đây, mẹ còn thiết gì đời mẹ nữa đây?”
 
San Hô khuyên giải: “Mẹ ơi, tất cả đều là ý trời, mọi sự thuận nghịch tốt xấu, con người không thể biết trước được. Mẹ đừng quá đau lòng, đừng để hại đến thân thể. Đoạn đường phía trước vẫn còn xa. Mạng mấy người ở đây đều phụ thuộc vào mẹ cả. Nếu mẹ không ốm không đau, bọn chúng con mới được yên dạ. Mộc La có bị mất hay không, cũng chưa thể khẳng định ngay được; Chúng ta vẫn phải tiếp tục đi tìm em con khắp nơi. Tất cả cũng là vì con không tốt. Con ngàn lần không nên vạn lần không nên để em con lại trên xe một mình!”
 
Diêu thái thái gắng gượng kìm chế đau thương, đáp lời: “Chuyện này không thể trách con được, là tại số mẹ không may mới gây ra tai vạ. Mẹ không nên bảo con bế hai chị em nó sang. Nhưng mà ai biết được lại xảy ra bất ngờ như thế này? Chẳng may Mộc Lan xảy ra bất trắc gì, bị người ta bắt cóc, hoặc là lừa bán đi thì…”. Nói đến đây bà lại khóc ngất lên. Diêu đại gia đứng ở bên cạnh, ông lặng im không nói lời nào. Mộc Lan là đứa con mà ông yêu thương nhất, nếu mà thật sự mất Mộc Lan, lòng ông đau như cắt. Vừa nghe thấy  hai chữ “bắt cóc”, ông lập tức đi ra, như thể một con chim bị trúng thương vậy.
 
Cẩm Nhi, vốn nãy giờ đứng tựa vào tường im lặng không nói lời nào bỗng nhiên khóc rống lên. Năm nay nó mười bốn tuổi, gần như lớn lên cùng Mộc Lan. Nó dạy cho Mộc Lan hầu hết các trò chơi, học hát các bài hát ru, từ nhỏ đã chơi đùa cùng Mộc Lan, Mộc Lan coi nó như chị em ruột vậy. Vừa rồi nghe nhắc tới hai chữ “bắt cóc”, nó tự nhiên nghĩ lại số mạng của nó, nhớ tới chuyện bặt vô âm tín của cha mẹ ruột của nó. Nó đau lòng nằm vật ra, khóc mãi không thôi. Thấy Cẩm Nhi khóc, Thể Nhân và Mạc Sầu cũng khóc theo, cả phòng toàn là tiếng kêu góc, vô cùng bấn loạn. Thanh Hà bước lại gần, kéo Cẩm Nhi dậy rồi nói:
 
 “Thái thái vừa cầm được nước mắt, em lại gào to lên như thế, khiến cả thiếu gia và Mạc Sầu khóc theo, mau nín đi”.
 
Cẩm Nhi ngồi dậy, nó cảm thấy xấu hổ nhưng mà vẫn lấy tay dụi đôi mắt đỏ hoe. Ngân Bình vốn trước nay không thích Cẩm Nhi, thấy thế liền giễu: “Từ sáng sớm hôm nay nó vẫn cứ chả ngồi mãi một mình. Chẳng chịu chải đầu rửa mặt cho cô Mạc Sầu, sau đó tôi cũng phải giúp cô ấy thay quần áo. Hai người họ tốt với nhau thế, đương nhiên là cô ấy rất đau lòng rồi”. Cẩm Nhi đi ra khỏi phòng, có vẻ như uất ức lắm, vừa đi nó vừa nói: “Tôi khóc mặc tôi, tôi thích khóc thì có can hệ gì đến chị? Tôi thích tiểu thư Mộc Lan thì cũng không liên quan đến chuyện của chị!”.
 
Ngân Bình tức giận nói: “Chúng ta đều là hầu hạ thái thái, thiếu gia, tiểu thư, chẳng ai quản được chuyện của ai hết”.
 
Diêu thái thái quát: “Bọn bay làm phản đó hả!”
 
San Hô vội chạy đến phòng khác, cô nói: “Bây giờ là lúc gây chuyện phải không? Không lẽ chưa đủ nhiều chuyện hay sao?”
 
Cẩm Nhi vừa khóc thút thít vừa nói: “Con cũng đâu muốn khóc, là vì con nhớ tới tiểu thư Mộc Lan. Thái thái vừa nhắc đến chuyện bắt cóc bán đi, con lại nghĩ đến phận con. Trời ơi, mẹ ơi, giá như mẹ còn sống, thì con đâu đến nỗi bị người ta ăn hiếp chứ!”
 
San Hô an ủi Cẩm Nhi: “Đương nhiên là chúng ta ai cũng đều buồn, đương nhiên sẽ khóc, em cũng cố nén lòng lại nhé”.
 
Cẩm Nhi căm tức nói: “Nếu mà Thể Nhân thiếu gia đi mất xem, cô xem cô ta có khóc hay không?”
 
Ngân Bình vốn vẫn đứng bên ngoài nghe bấy giờ mới bước vào. San Hô quay người kéo nó ra, quát hai đứa không ai được nói thêm câu nào nữa.
 
Bấy giờ bao ý nghĩ khủng khiếp đang hiện ra trong đầu Diêu lão gia, ông nghĩ đến việc một bé gái nhỏ tuổi lại xinh đẹp như Mộc Lan bị mất tích thì chuyện gì sẽ xảy ra, những ý nghĩ đó còn khiến người ta kinh hãi hơn là cái chết. Trong lòng hoài nghi không yên, nỗi lo lắng cứ đè nẵng mãi trong lòng, ông không thể đoán được tình hình hiện tại của Mộc Lan, liệu có thể tìm trong phủ Hà Gián hay là đi nơi khác mới tìm được con, điều này thật khó có hy vọng, tất cả mọi chuyện dồn đến khiến đầu óc mụ cả đi. Sáng sớm hôm đó, Diêu thái thái không nói gì nhiều nữa, bà chỉ nói: “Bất kể sống hay chết, tôi phải tìm bằng được Mộc Lan”. Bà bỗng như biến thành một người ngớ ngẩn, trong lòng chỉ còn duy nhất một chuyện là tìm Mộc Lan, còn đối với mọi chuyện khác, bà nhìn mà không thấy, bà nghe cũng không lọt tai.
 
Đến trưa, sau khi bày thức ăn lên bàn, bà ngẩn ngơ bước vào bàn. Bà ăn nhưng không biết là mình đang ăn. Cả Cẩm Nhi, đang yên lặng ăn cơm, nó bỗng đặt bát cơm xuống rồi thút thít khóc bỏ ra ngoài.
 
Sự trầm tĩnh khác thường đó của Diêu thái thái thực sự khiến cho San Hô sợ hãi. San Hô nói: “Mẹ ơi, mẹ phải nghỉ ngơi nhiều hơn. Cả đêm qua mẹ không ngủ. Bây giờ đang tìm khắp nơi cũng phải tìm mất vài hôm. Chúng ta phải nên giữ gìn sức khỏe mới phải”. Diêu thái thái như một cái máy, để mặc San Hô kéo đến bên giường, nửa lời bà cũng không mở miệng.
 
Trong thành phủ Hà Gián có khoảng năm nghìn dân, tọa lạc ở trung tâm một vùng đất thấp, xung quang có một dòng sông lớn chảy từ Đông Bắc về hướng Thiên Tân. Ngoài ba mươi dặm phía đông là Thương Châu, nằm ngay bên bờ con sông Vận Lương. Bốn mươi dặm về phía Nam là Đức Châu. Đức Châu nằm ngay đỉnh của hình tam giác nối giữa phủ Hà Gián, Thương Châu và Đức Châu. Từ Đức Châu chéo lên hướng Bắc, đoạn đường giữa Đức Châu và Hà Gián cũng bằng đoạn đường từ Đức Châu đến Thương Châu. Tuy nhiên, từ Đức Châu đến Hà Gián phải đi đường bộ còn đến Thương Châu thì có thể theo đường sông Vận Lương.
 
Để tìm Mộc Lan, nhà họ Diêu đành phải dán cáo thị tìm người khắp các nhà trọ, cổng thành, trên các con đường trong thành ngoài trấn. Nói cho mọi người biết địa chỉ quán trọ của họ và hứa sẽ thưởng hậu. Số tiền treo giải là hai trăm lượng bạc. Đám đàn bà con gái phải ở lại quán trọ, Diêu đại gia, Phùng cữu gia, La Đông cùng cả cách phu xe, mang theo tiền thưởng, đi khắp thành và cả các làng xã xung quanh để tìm. Diêu phu nhân bỗng nhiên trở thành một người rất kiên trì mạnh mẽ, bà quanh quẩn khắp các đường phố ngõ hẻm để tìm Mộc Lan, rồi bà còn đi ra sông, không quản bất kể ngày đêm đều đi tìm cốt nhục của bà
 
Nhưng mà trong phủ Hà Gián có biết bao nhiêu nạn dân và cũng có rất nhiều trẻ con mất tích chứ không phải chỉ riêng Mộc Lan. Có mấy lần tin đưa đến bị nhầm. Diêu phu nhân thậm chí còn đến cả bờ sông cổng Tây thành để xem xác chết của một bé gái.
 
Diêu đại gia cưỡi ngựa đi tìm khắp làng mạc xung quanh, những người khác thì đi theo hướng Đông lên mạn cầu Sa Hà hoặc đi về hướng Tây đến huyện Túc Ninh.
 
Nhưng mà vẫn không tìm thấy bóng dáng Mộc Lan đâu cả.
 
Đứa bé này phải chăng đã bị rơi vào tay bọn bắt cóc buôn người. Tình hình thế này có lẽ suy đoán đó đã đúng tới bảy tám phần. Dù gì thì Mộc Lan cũng đáng giá trăm hai bạc, tuy nhiên không ai dám nói câu nào cả. Một hôm, Phùng cữu gia về nói, bọn buôn người đều làm ăn với đám thuyền nương trên sông Vận Lương. Cẩm Nhi trước kia cũng bị bắt đem bán, nó nói chuyện bán người trên thuyền là có thật. Hơn nữa hồi đó nó cũng nói thuyền nương đối đãi nó rất tốt. Trong những năm đó, sông Vận Lương chính là đường giao thông chính từ phương Nam lên Bắc Kinh. Thanh Bang (4) hiện đang chiếm cứ sông Vận Lương, trong số họ cũng có một bộ phận hoàn lương. Sau khi tuyến đường sắt Tân Phố được sửa sang, việc làm ăn trên sông Vận Lương không còn được như trước, Thanh Bang mới gia nhập vào Hồng Bang, trên mạn Trường Giang tự xưng là Thanh bang, sau đó đến khu tô giới của Pháp ở Thượng Hải thống lĩnh bọn trộm cướp, buôn bán thuốc phiện, kỹ viện. Bọn chúng nổi tiếng là bọn chuyên gạt người đem bán, bắt cóc, cướp bóc, nhưng mà họ cũng vô tư hành thiện. Thủ lĩnh của bọn chúng đang giữ chức cố vấn cục công vụ, lãnh đạo việc cứu trợ nạn hạn hán lũ lụt, mỗi dịp sinh nhật bọn họ, các quan viên cao cấp còn tự thân đến chúc thọ. Đây là một tổ chức hoạt động bí mật chuyên tự vệ, giúp đỡ và hợp tác, bảo đảm cuộc sống cho những dân nghèo mất việc, để mọi người được hưởng công bằng, họ đối đãi với nhau vô cùng hào hiệp rộng rãi, cùng trọng danh sự nghĩa khí. Tổ chức này bắt nguồn từ một hội bí mật cách đây một ngàn năm. Các vị anh hùng trong các cuốn tiểu thuyết chính là các vị thần mà họ sùng bái, ngoài ra còn họ cũng tôn thờ các vị chiến tướng trung chinh, rồi những tên trộm nghĩa hiệp cướp của người giàu chia cho người nghèo và cả những vị hảo hán mà công chúng ngưỡng mộ.
 
Nghĩa Hòa Đoàn vốn dĩ cũng là một tổ chức bí mật, là một nhánh của Bạch Liên Giáo. Sau khi triều Minh suy vong, Bạch Liên Giáo chủ trương lật đổ triều đình Mãn Thanh. Nhưng hoàn cảnh lịch sử lại biến họ thành một tổ chức “phù Thanh diệt Dương”, gây là nhiều chuyện đại sự mang tính quốc tế.
 
Nhà họ Diêu đã tin rằng Mộc Lan bị bọn bắt cóc bán đi, cho nên sau mấy ngày tìm kiếm không có kết quả, họ quyết định đi tìm lên mạn sông Vận Lương. Phùng cữu gia đề nghị để mình đi đến Thương Châu, chỉ mất một ngày đường, rồi theo dòng sông Vận Lương mà đi xuống, qua mỗi thị trấn, bến đò đều dừng lại dò tìm manh mối, những người khác thì phải tiếp tục lên đường, hai bên gặp lại nhau ở Đức Châu.
 
Chỉ có vài chuyện, xem chừng có vẻ còn chút hi vọng. Ngày thứ ba sau khi Mộc Lan mất tích, Diêu thái thái mời được một ông thầy đoán số mù, hỏi ông ta chuyện bà bị mất con. Bà đưa ngày tháng năm sinh rồi cả thiên can địa chi (5) của Mộc Lan, ông thầy đoán số nói rằng bát tự(6) của Mộc Lan rất có phúc, có song tinh chiếu mệnh, cho nên năm mười tuổi sẽ phải gặp trắc trở, nhưng nhờ số mệnh tốt, tự nhiên gặp hung mà hóa cát. Hơn nữa, đường lương duyên khá sớm, tuy không phải là phu nhân nhà quan cao trức trọng, nhưng mà cả đời không phải lo cái ăn cái uống. Hỏi ông thêm rằng có tìm lại được con không, ông tỏ vẻ thâm cơ khó lường mà nói: “Có quý nhân phù trợ”. Tóm lại, vì bát tự của Mộc Lan quá tốt, nên ông ta đòi công quẻ bói một đồng bạc nhưng Diêu phu nhân hào phóng biếu ông ta tận hai đồng.
 
Như thế, tinh thần Diêu phu nhân khá hơn rất nhiều, bà đi dâng hương miếu Thành Hoàng. Nói ra kể cũng lạ, ba lần xin đài âm dương trước thần phật đều được quẻ đại cát.
 
Buổi tối hôm đó, Diêu phu nhân lại nằm mơ, giấc mơ cũng giống như lần trước. Bà nghe thấy Mộc Lan gọi rất rõ: “Con ở đây, con ở đây!”. Lúc ấy bà lại thấy Mộc Lan đang hái hoa trên bãi cỏ bên kia suối, bên cạnh Mộc Lan còn có một cô gái khác mà bà không quen, trước đó cũng chưa từng gặp. Diêu phu nhân gọi Mộc Lan đến, thì từ bên kia Mộc Lan gọi to: “Mẹ sang bên con đi! Nhà chúng ta ở bên này. Mẹ ở bên đó không đúng đâu”. Diêu phu nhân muốn tìm một con đò ngang, hoặc một cây cầu, nhưng mà không có.
 
Rồi bà dường như cảm thấy mình đi được trên nước, rồi bà cứ xuôi theo dòng chảy đi xuống mãi, lúc đó bất chợt quên mất con gái. Bà đi qua thị trấn, trôn trang, tháp Phật trên đỉnh núi, lúc đi đến gần một cái cầu, bà nhìn thấy một người đàn ông đang bước trên cầu vẻ mệt mỏi, nhìn kỹ lại, thì ra là chồng của bà. Bà còn nhìn thấy một cô gái trẻ đang dìu chồng mình, nhưng mà người đó không phải ai khác mà chính là Mộc Lan. Bà gọi họ từ dưới sông lên, nhưng dường như họ không nghe thấy mà vẫn cứ tiếp tục đi thẳng. Hai mắt bà dõi theo Mộc Lan không rời, không nhờ mình bị đụng vào cột cầu, không nổi trên mặt nước được nữa mà từ từ chìm xuống, bà giật mình tỉnh giấc.
 
Sáng sớm hôm sau, bà đem giấc mơ kể lại cho chồng, hai người đều rất đỗi phấn khởi.

 

Chú giải


(4) Thanh Bang: Một kiểu bang hội. Lúc đầu hầu hết những người tham gia tổ chức này làm nghề vận chuyển đường sông. Hoạt động ở khắp các thành phố từ trung bình đến lớn ở hai bên bờ sông Trường Giang. Sau này thành phần phức tạp, người cầm đầu tổ chức cấu kết với quan phủ, Thanh Bang trở thành tay chân của các tổ chức phản động lật đổ giai cấp thống trị.  Thiên Can

(5) Địa Chi: là hệ thống đánh số thành chu kỳ cổ của người Trung Hoa. Nó được áp dụng với tổ hợp chu kỳ sáu mươi (60) trong âm lịch nói chung để xác định tên gọi của thời gian (ngày, giờ, năm, tháng) cũng như trong chiêm tinh học. Thiên Can gồm mười can là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Địa chi bao gồm 12 chi gồm: Tí, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

(6)  Bát tự:  Tám chữ (giờ, ngày tháng năm sinh viết theo Thiên Can Địa Chi). Đây là một cách xem số mệnh của người Trung Quốc. Người ta cho rằng giờ, ngày tháng năm sinh đều bị Thiên Can Địa Chi chi phối. Mỗi giờ, ngày, tháng, năm sinh được thay hai chữ, cộng lại là tám chữ. Dựa vào tám chữ ấy, các ông thầy đoán số suy đoán được vận mệnh của một con người.
 

 

Tác giả bài viết: 2zhaowei.com